|
TƯ VẤN |
Ai được nuôi con sau “hôn nhân lừa dối”? (10:12, 02/05/2009)
TT - Sau ly hôn, trên thực tế có những cuộc tranh chấp quyết liệt về chuyện cha hay mẹ sẽ là người được trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con (dưới 18 tuổi).
|
|
|
|
- Luật sư Nguyễn Bảo Trâm trả lời:
Vậy ai được quyền nuôi con? Theo điều 92 Luật hôn nhân và gia đình hiện hành và các văn bản hướng dẫn thi hành, tòa án sẽ căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của đứa trẻ, đặc biệt là các điều kiện cho sự phát triển thể chất, bảo đảm việc học hành và các điều kiện cho sự phát triển tốt về tinh thần, để quyết định giao con cho ai nuôi. Đối với đứa con từ chín tuổi trở lên, tòa án cần xem xét nguyện vọng của đứa bé, còn đối với con dưới ba tuổi thì về nguyên tắc chung được giao cho người mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thỏa thuận khác.
Người viết bài này đã có tham khảo ý kiến một số vị thẩm phán giải quyết những vụ ly hôn. Do luật chỉ quy định chung chung, nên tòa án luôn phải cân nhắc rất kỹ lưỡng trước khi quyết định và việc quyết định này thường thể hiện đậm nét ý chí chủ quan, niềm tin nội tâm nơi người xét xử.
Thực tế cho thấy không phải người có điều kiện kinh tế tốt hơn (có nhiều tiền để cho con ăn ngon mặc đẹp, đi học trường quốc tế, đi du lịch nước ngoài thường xuyên...) là đương nhiên được trực tiếp nuôi con. Điều này chỉ là một trong những yếu tố bảo đảm, khi chứng minh được việc đứa con ở với người đó sẽ không bị xáo trộn cuộc sống (nay ở nơi này, mai ở nơi khác, thay đổi nơi học thường xuyên...), không bị ảnh hưởng xấu bởi tư cách, lối sống sinh hoạt hằng ngày của mình...
Không được ưu tiên
Những quy định nói trên không chỉ áp dụng đối với những người có cuộc hôn nhân hợp pháp, mà còn áp dụng với những trường hợp có yếu tố “lừa dối”. Thí dụ ông A kết hôn với bà B chỉ vì muốn kiếm con, sau khi có con thì ly hôn với bà B và giành quyền nuôi con. Trong trường hợp này, nếu có chứng cứ chứng minh được ông A đã dùng lời nói “có cánh”, hành động giả dối để làm cho bà B tin rằng ông A yêu thương mà đồng ý kết hôn thì bà B có quyền yêu cầu tòa án hủy cuộc hôn nhân trái pháp luật với lý do bị lừa dối.
Khi giải quyết việc hủy hôn nhân trái pháp luật, quyền lợi của con chung giữa ông A và bà B cũng được xem xét như trường hợp ly hôn. Điều đó có nghĩa là bà B không được ưu tiên trực tiếp nuôi con nếu con trên ba tuổi, mà việc ai là người được giao trực tiếp nuôi con sẽ được tòa án giải quyết theo pháp luật.
Cũng có ý kiến cho rằng như vậy là quá thiệt thòi cho những người phụ nữ như bà B vì đã gặp bất hạnh trong chuyện tình yêu và hôn nhân, nay lại không được ưu tiên nuôi con. Thế nhưng pháp luật hiện hành chưa có quy định thì không thể nào cho ưu tiên được. Mặt khác, theo nguyên tắc chung hiện nay, trong các vụ án, vụ việc có liên quan đến tranh chấp nuôi con, đứa con và lợi ích của đứa con mới là vấn đề trọng tâm, trọng điểm cần giải quyết chứ không phải là cha (mẹ).
Do vậy, việc giao cho ai trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn hay sau khi cuộc hôn nhân trái pháp luật bị hủy phải xuất phát từ lợi ích mọi mặt của đứa con, chứ không phải vì lợi ích, sự thiệt - hơn của cha (mẹ).
Được xin thay đổi quyền nuôi con
Không được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con ngay sau khi ly hôn không có nghĩa là vĩnh viễn không được quyền này. Bởi lẽ, theo điều 93 Luật hôn nhân và gia đình, khi đôi bên có thỏa thuận mới hoặc khi thấy người kia không còn đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con nữa, thì người còn lại vẫn có quyền yêu cầu tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con, nếu con chưa thành niên.
Do vậy, điều quan trọng nhất không phải là ai được tòa tuyên giao cho quyền nuôi con, mà ở chỗ ai mới thật sự là người vì con. Điều này thể hiện qua việc dù không được trực tiếp nuôi con nhưng vẫn thăm nom, cấp dưỡng cho con; khi bản thân thấy rằng không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con tốt hơn thì tự nguyện giao lại cho người kia; hoặc khi thấy người kia không còn đủ điều kiện trực tiếp nuôi con nữa thì biết cách đấu tranh sao cho đừng làm tổn thương thêm cho mình, cho con và cả cho người mà mình đã từng trìu mến gọi là “mình ơi!”.
Luật sư NGUYỄN BẢO TRÂM
(Công ty luật TNHH Sài Gòn Luật) |
|
|
admin |
|
Điều kiện nhập hộ khẩu? (10:07, 02/05/2009)
TT - Tôi có hộ khẩu ở Long An nhưng đã sống ở Q.3, TP.HCM trên 10 năm theo diện KT3. Lúc trước, mỗi năm tôi đều đến công an phường gia hạn giấy tạm trú. Đến năm 2007, công an phường bảo tôi không cần gia hạn nữa, thời gian gia hạn lần sau của giấy tạm trú để trống. Nay tôi có mua một căn nhà ở một quận trong thành phố.
Công an quận này cho rằng giấy tạm trú của tôi không hợp lệ, vì nếu tạm trú không thời hạn phải ghi rõ không thời hạn và buộc tôi phải gia hạn lại. Nhưng theo giải thích của công an phường trước đây thì họ đã làm đúng theo Luật cư trú. Xin hỏi giấy tạm trú của tôi có hợp lệ không? Cách giải thích của cơ quan nào đúng và hồ sơ xin nhập hộ khẩu gồm những giấy tờ gì?
(Vĩnh Lộc) |
|
|
|
Theo tiết d, tiểu mục 2, phần III thông tư 06/2007/TT-BCA-C11 ngày 1-7-2007, “công dân thay đổi nơi tạm trú ngoài phạm vi xã, phường, thị trấn thì được cấp sổ tạm trú mới; các trường hợp đã cấp giấy tạm trú có thời hạn theo quy định trước đây vẫn tiếp tục có giá trị sử dụng nếu còn thời hạn”. Do thời gian tạm trú trên giấy tạm trú của ông đã hết hạn từ năm 2007 nên không còn giá trị sử dụng, và theo quy định này thì ông được cấp sổ tạm trú mới.
Theo khoản 1, điều 20 Luật cư trú, nếu ông có chỗ ở hợp pháp và đã tạm trú liên tục tại thành phố từ một năm trở lên thì ông có đủ điều kiện đăng ký thường trú (nhập hộ khẩu). Giấy tờ chứng minh thời hạn tạm trú là một trong các giấy tờ sau: giấy tờ về tạm trú có thời hạn hoặc xác nhận của công an phường, xã, thị trấn về thời gian tạm trú trước ngày 1-7-2007; sổ tạm trú hoặc xác nhận của công an xã, phường, thị trấn về thời gian đăng ký tạm trú (đối với các trường hợp đăng ký tạm trú nhưng không cấp sổ tạm trú). Như vậy, nếu muốn đăng ký thường trú tại thành phố, ông có thể đề nghị công an phường nơi ông đã tạm trú trước đây xác nhận về thời gian tạm trú như các quy định nói trên.
Theo khoản 1 điều 20, điều 21 Luật cư trú, hồ sơ đăng ký thường trú gồm: phiếu báo thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu; bản khai nhân khẩu; giấy chuyển hộ khẩu; giấy tờ và tài liệu chứng minh chỗ ở hợp pháp. Đối với trường hợp chuyển đến thành phố trực thuộc trung ương, ông cần có thêm tài liệu chứng minh đã tạm trú liên tục tại thành phố này từ một năm trở lên. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan công an quận, TP có trách nhiệm cấp sổ hộ khẩu cho ông; trường hợp không cấp, nơi đây phải trả lời cho ông bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Luật sư NGUYỄN BẢO TRÂM
(Công ty luật TNHH Sài Gòn Luật)
|
|
|
admin |
|
Có quyền đòi chia nhà đã được tặng cho? (10:04, 02/05/2009)
TT - Nhà chồng tôi có ba anh, chị em. Mẹ chồng đã mất từ lâu. Một chị chồng tôi đã ly dị và về sống cùng chúng tôi. Người chị còn lại đến nay chưa có gia đình và vẫn ở chung. Do thường xảy ra mâu thuẫn nên đến năm 2006, cha chồng tôi đã làm hợp đồng tặng cho căn nhà cho vợ chồng tôi (và đồng thời sang tên cho vợ chồng tôi đứng tên trên “sổ hồng”).
Chúng tôi đã tách căn nhà trên làm hai phần và xây nhà phía trước bằng tiền của mình để ở cùng với cha chồng, còn các chị ở phía sau. Thế nhưng các chị vẫn không đồng ý và muốn sau này phải chia đều.
Tôi có đề nghị với cha chồng tôi chia hẳn cho các chị phần đất phía sau vì các chị không có điều kiện đi chỗ khác, nhưng cha chồng tôi không đồng ý. Vậy cho tôi hỏi nếu sau này cha chồng tôi không còn nữa, các chị có quyền đòi chia lại căn nhà trên không?
THẢO TRANG |
|
|
|
- Luật sư Nguyễn Bảo Trâm trả lời:
Nếu căn nhà mà cha chồng bà tặng cho vợ chồng bà thuộc sở hữu riêng của ông ấy và thủ tục tặng cho đã đúng luật định, đã được Nhà nước công nhận thì theo khoản 2, điều 170 Bộ luật dân sự, vợ chồng bà được quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất này. Như vậy, nếu sau này cha chồng bà mất, các anh chị em chồng của bà không có quyền đòi chia phần nhà và đất mà cha chồng bà đã tặng cho vợ chồng bà.
Nếu nhà đất trên thuộc sở hữu của cha và mẹ chồng bà thì cha chồng bà chỉ được tặng cho vợ chồng bà phần nhà và đất thuộc quyền sở hữu và quyền sử dụng của ông ấy trong nhà và đất đó, còn phần thuộc sở hữu của mẹ chồng bà trong căn nhà đó thuộc di sản thừa kế, được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Luật sư NGUYỄN BẢO TRÂM
(Công ty luật TNHH Sài Gòn Luật)
|
|
|
admin |
|
Muốn chấm dứt việc sống chung như vợ chồng (09:58, 02/05/2009)
TT - Tôi sống thử và làm đám cưới với một người nhưng không đăng ký kết hôn. Hiện nay tôi không còn sống chung với người này nữa. Tôi muốn có cuộc hôn nhân nghiêm túc và đúng pháp luật với một người khác. Vậy tôi có phải làm thủ tục xin ly hôn không? Nếu không, tôi phải làm thế nào?
Lê Minh C. (Đồng Nai) |
|
|
|
- Luật sư Nguyễn Bảo Trâm trả lời:
Theo khoản 1, điều 11; điều 87 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; khoản 3 nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 ngày 9-6-2000; khoản 2 thông tư 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 3-1-2001 thì các trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng, trừ trường hợp việc chung sống này xác lập trước ngày 3-1-1987.
Nếu một trong các bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn mà không thuộc trường hợp chung sống từ trước ngày 3-1-1987, tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng; nếu họ có yêu cầu về con và chia tài sản thì tòa án áp dụng khoản 2 và khoản 3 điều 17 của Luật hôn nhân gia đình để giải quyết theo thủ tục chung.
Do đó để chấm dứt mối quan hệ trên, ông có thể gửi đơn yêu cầu tòa án nhân dân cấp huyện nơi một trong hai bên cư trú để yêu cầu không công nhận là vợ chồng với người đó. Sau khi có quyết định hoặc bản án có hiệu lực pháp luật về việc này, ông mới có thể làm thủ tục đăng ký kết hôn với người khác theo luật định.
Luật sư NGUYỄN BẢO TRÂM
(Công ty luật TNHH Sài Gòn Luật) |
|
|
admin |
|
Giá đất bồi thường tính vào thời điểm nào? (09:34, 02/05/2009)
TT - Tôi với một người bạn mua chung một mảnh đất diện tích 3.000m2, có nhà trên đó, mỗi nhà 1.500m2. Năm 2003, Nhà nước thu hồi mảnh đất trên để làm đất tái định cư. Vì chúng tôi không có các giấy tờ chứng minh nguồn gốc sử dụng đất nên UBND thị xã không giải quyết việc bồi thường. Chúng tôi không đồng ý và tiếp tục khiếu nại lên UBND tỉnh.
Đến nay người bạn tôi đã nhận được quyết định (QĐ) bồi thường của UBND tỉnh và đã được bồi thường, còn tôi vẫn chưa được giải quyết. Vậy cho tôi hỏi: nếu giá đất bồi thường hiện nay cao hơn giá đất khi có QĐ thu hồi thì tôi có được bồi thường bằng giá đất ở thời điểm hiện tại? Nếu giá đất bồi thường hiện nay bằng giá đất lúc có QĐ thu hồi nhưng do thời gian bồi thường bị chậm, tôi có được hưởng lãi suất cao nhất tại Ngân hàng Nhà nước ở địa phương không?
(Trần Xuân Đa) |
|
|
|
- Luật sư Nguyễn Bảo Trâm trả lời:
Theo khoản 2, điều 9 nghị định 197/NĐ-CP ngày 3-12-2004 (NĐ 197), nếu việc bồi thường chậm do cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường gây ra mà giá đất tại thời điểm bồi thường do UBND cấp tỉnh công bố cao hơn giá đất tại thời điểm có QĐ thu hồi thì bồi thường theo giá đất tại thời điểm trả tiền bồi thường; nếu giá đất tại thời điểm bồi thường thấp hơn giá đất tại thời điểm có QĐ thu hồi thì bồi thường theo giá đất tại thời điểm có QĐ thu hồi.
Còn nếu việc bồi thường chậm do người bị thu hồi đất gây ra thì nếu giá đất tại thời điểm bồi thường thấp hơn giá đất tại thời điểm có QĐ thu hồi thì bồi thường theo giá đất tại thời điểm bồi thường; nếu giá đất tại thời điểm bồi thường cao hơn giá đất tại thời điểm có QĐ thu hồi thì bồi thường theo giá đất tại thời điểm có QĐ thu hồi.
Theo điều 32, NĐ 197, căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương, chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định biện pháp hỗ trợ khác để bảo đảm ổn định đời sống và sản xuất cho người bị thu hồi đất; trường hợp đặc biệt thì trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Do vậy, ông nên liên hệ trực tiếp với UBND cấp tỉnh nơi có QĐ thu hồi đất để được rõ về việc có được hỗ trợ lãi suất.
Luật sư NGUYỄN BẢO TRÂM
(Công ty luật TNHH Sài Gòn Luật) |
|
|
admin |
|
|
|