|
TƯ VẤN |
Ly dị, ai đứng ra làm thủ tục đổi tên con? (09:25, 02/05/2009)
TT - Bà H.K. có con trai tên P.T.C., sinh năm 2000. Do có người bên gia đình chồng có tên húy trùng với tên con bà nên bà muốn đổi tên cho bé. Sau đó vợ chồng bà hục hặc rồi ra tòa ly hôn. Còn cháu bé thì rất buồn khi bị chọc ghẹo vì cái tên P.T.C..
Khi bà đến UBND phường yêu cầu thay đổi tên cho cháu thì cán bộ hộ tịch yêu cầu bà phải chứng minh được tên cháu trùng với tên gọi của người họ hàng đã mất và người cha đi khai sinh cho cháu mới có quyền đổi tên. Bà H.K. băn khoăn làm sao bà chứng minh được tên gọi của người đã khuất, làm sao bà có thể yêu cầu cha của cháu bé đến để thay đổi tên và tên đệm của con khi mâu thuẫn vợ chồng sau khi ly hôn rất trầm trọng? |
|
|
|
- Luật sư Nguyễn Bảo Trâm trả lời:
Về chuyện này, theo điểm a, khoản 1, điều 27 Bộ luật dân sự; khoản 1, điều 36 nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 (NĐ 158) thì nếu việc sử dụng họ, tên của cháu bé con bà H.K. gây nhầm lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, danh dự, quyền, lợi ích hợp pháp của cháu thì mẹ hoặc cha cháu đều có quyền yêu cầu thay đổi họ, tên cho con. Việc cán bộ hộ tịch yêu cầu bà H.K. phải chứng minh được tên trùng và phải là người đăng ký khai sinh cho con bà mới có quyền yêu cầu thay đổi là không đúng theo quy định trên.
Nếu bà H.K. cho rằng hành vi trên của cán bộ hộ tịch xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của con bà, bà có quyền gửi đơn khiếu nại đến chủ tịch UBND xã, phường trên để được giải quyết (theo điều 84, 85 NĐ 158).
Theo khoản 1, điều 37; điều 38 NĐ 158 thì thủ tục thay đổi họ, tên như sau: bà H.K. có thể nộp hồ sơ yêu cầu UBND xã, phường nơi đã đăng ký khai sinh trước đây của con bà để được giải quyết. Hồ sơ gồm có: tờ khai (theo mẫu), bản chính giấy khai sinh của cháu bé, các giấy tờ liên quan để làm căn cứ cho việc thay đổi họ tên cho cháu. Trường hợp cháu bé từ đủ 9 tuổi trở lên thì phải có ý kiến đồng ý của cháu.
Trong thời hạn năm ngày (trường hợp cần phải xác minh thì thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá 5 ngày) kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu việc thay đổi hộ tịch có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật thì cán bộ tư pháp hộ tịch ghi vào sổ đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch; chủ tịch UBND xã, phường ký và cấp cho bà bản chính quyết định cho phép thay đổi, cải chính hộ tịch.
Sau khi việc thay đổi hộ tịch đã được ghi vào sổ đăng ký khai sinh thì bản sao giấy khai sinh từ sổ đăng ký khai sinh sẽ ghi theo nội dung đã thay đổi.
Luật sư NGUYỄN BẢO TRÂM
(Công ty luật TNHH Sài Gòn Luật)
|
|
|
admin |
|
Tách hộ khẩu khi ly hôn (09:06, 02/05/2009)
Ba mẹ của tôi ly hôn đã gần 10 năm. Ba tôi nuôi em, còn tôi được mẹ nuôi. Trên thực tế mẹ nuôi cả hai chị em tôi, cho đến giờ mẹ tôi vẫn chưa có nhà riêng. Bây giờ ba tôi đã có vợ mới. Vậy khi tách sổ hộ khẩu, tôi và mẹ có phải tách ra khỏi sổ hộ khẩu không? Tôi hỏi dì, dì trả lời là phải làm theo giấy ly hôn. Điều này có đúng không?
(kylan...@) |
|
|
|
- Luật sư Nguyễn Bảo Trâm trả lời:
Theo khoản 1, điều 24; khoản 2, điều 25 Luật cư trú (LCT), sổ hộ khẩu được cấp cho hộ gia đình hoặc cá nhân đã đăng ký thường trú và có giá trị xác định nơi thường trú của công dân. Nhiều hộ gia đình ở chung một chỗ ở hợp pháp thì mỗi hộ gia đình được cấp một sổ hộ khẩu.
Theo điểm đ, khoản 1 điều 22 và điều 27 LCT thì trong trường hợp có cùng một chỗ ở hợp pháp, nếu đáp ứng đủ điều kiện, ba của bạn được tách sổ hộ khẩu, và được cấp một sổ hộ khẩu mới. Nếu mẹ bạn và bạn đã có tên trong sổ hộ khẩu và đang ở tại nơi đăng ký hộ khẩu thì trong sổ hộ khẩu cũ vẫn còn tên của bạn và mẹ bạn. Nếu mẹ của bạn đã đăng ký thường trú ở nơi cư trú mới, trong trường hợp này cơ quan đã làm thủ tục đăng ký thường trú cho mẹ bạn ở nơi cư trú mới có trách nhiệm thông báo ngay cho cơ quan đã cấp giấy chuyển hộ khẩu để xóa đăng ký thường trú ở nơi cư trú cũ (xóa tên mẹ bạn trong sổ hộ khẩu cũ). Còn bản án, quyết định ly hôn của tòa án không điều chỉnh vấn đề tách hộ khẩu.
Luật sư NGUYỄN BẢO TRÂM
(Công ty luật TNHH Sài Gòn Luật) |
|
|
admin |
|
Chính sách nhà đất đối với Việt kiều? (20:18, 05/12/2008)
Vào năm 1979, gia đình chúng tôi rời khởi Việt Nam và có để lại nhà và đất. Chúng tôi vẫn còn giữ tất cả các giấy tờ liên quan đến nhà đất này. Tôi muốn hỏi:
1. Việt kiều có thể xin lại nhà đất ở Việt Nam không?
2. Nhà nước Việt Nam đã có văn bản pháp luật nào quy định về việc trả lại nhà và đất cho Việt kiều hay không? Đó là văn bản nào?
(Anna Trần) |
|
|
|
Luật sư Nguyễn Bảo Trâm trả lời: Nội dung hỗ trợ pháp lý dưới đây của Sài Gòn Luật chỉ mang tính nguyên tắc, dựa trên các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề bà nhờ hỗ trợ căn cứ vào những thông tin do bà cung cấp.
1. Do trong thư không nêu cụ thể những vấn đề liên quan đến nhà đất của gia đình bà, do vậy chúng tôi chia thành hai trường hợp sau đây:
(i) Thứ nhất, trường hợp nhà đất của gia đình bà để lại thuộc diện Nhà nước quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất và Nhà nước.
Trong trường hợp này, nếu nhà và đất để lại của gia đình bà đã có văn bản quản lý và đã được nhà nước bố trí cho người khác sử dụng, thì theo quy định tại Điều 2 Nghị quyết 23 Nhà nước Việt Nam không thừa nhận việc đòi lại nhà đất đó. Do đó, gia đình bà không thể đòi lại nhà và đất đó được.
Các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất của Việt Nam gồm có:
- Cải tạo nhà đất cho thuê;
- Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh có liên quan trực tiếp đến nhà đất;
- Quản lý nhà đất của các tổ chức, cá nhân (diện 2/IV) ở các tỉnh, thành phố phía Nam sau ngày giải phóng (30/4/1975);
- Quản lý nhà đất vắng chủ;
- Quản lý nhà đất trong từng thời điểm nhất định và nhà đất của các đoàn hội, tôn giáo;
- Quản lý nhà đất của những người di tản, chuyển vùng hoặc ra nước ngoài.
Tuy nhiên, nếu nhà và đất để lại của gia đình bà thuộc diện nhà nước quản lý, bố trí sử dụng nhưng trên thực tế, Nhà nước Việt Nam vẫn chưa có văn bản quản lý và cũng chưa bố trí cho ai sử dụng, đến nay nhà và đất này vẫn còn do khi đi xuất cảnh gia đình bà có cho người khác thuê, mượn, ở nhờ hoặc giao cho người thân thích quản lý và sử dụng nhà và đất, thì nay theo quy định tại Điều 4 Nghị quyết 755, gia đình bà (tức chủ sở hữu nhà đất) có thể lấy lại nhà đất.
Căn cứ vào Điều 4, Nghị định 127, thì việc lấy lại căn nhà của bà được thực hiện theo thủ tục được quy định tại Nghị quyết 1037, tức phải thực hiện thủ tục thông báo trước cho bên thuê, mượn, ở nhờ nhà ở hoặc người đang quản lý, sử dụng nhà ở một khoảng thời gian và phải thanh toán cho người đó các khoảng tiền liên quan đến việc cải tạo, sửa chửa, nâng cấp, v.v. (các Điều 5, 9, 23, 24 và 25 Nghị quyết số 1037).
(ii) Thứ hai, trường hợp nhà trước khi đi xuất cảnh, gia đình bà có cho người khác ở thuê, mượn, ở nhờ hoặc ủy quyền cho người thân thích quản lý và sử dụng, thì nay gia đình bà có thể lấy lại nhà đất theo quy định của Nghị quyết 1037.
Nếu trước khi xuất cảnh, gia đình bà (hay chính xác là chủ sở hữu nhà và đất để lại) có thực hiện các giao dịch như: cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ nhà và đất hoặc đã ủy quyền cho người là con đẻ, vợ hoặc chồng hợp pháp của mình quản lý nhà và đất thì nay chủ sở hữu nhà và đất có thể lấy lại nhà ở, nhưng phải thực hiện thủ tục thông báo trước cho bên thuê, mượn, ở nhờ nhà ở hoặc người đang quản lý, sử dụng nhà ở một khoảng thời gian và thanh toán cho người đó các khoảng tiền liên quan đến việc cải tạo, sửa chửa, nâng cấp, v.v. theo các quy định của Nghị quyết 1037.
Đối với thắc mắc của bà về văn bản pháp luật quy định về việc trả lại nhà và đất cho Việt kiều, thực chất đó chính là Nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27/7/2006 của Ủy ban thường vụ quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia (chúng tôi đã vận dụng để giải quyết trong các phân tích trên). Nghị quyết này quy định về một số trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài có thể lấy lại nhà ở và giải quyết đối với những giao dịch như mua bán, tặng cho, thừa kế, v.v. xác lập trước ngày 01/7/1991 có sự tham gia của người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
|
|
|
admin |
|
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động? (18:24, 05/12/2008)
Công ty chúng tôi ký hợp đồng lao động một năm với chị T, làm việc được 09 tháng thì chị T báo với Công ty là chị có thai. Do hiệu suất làm việc của chị T kém nên Công ty muốn chấm dứt hợp đồng lao động với chị T. Nhưng hiện tại chị T có thai nên không thể cho chị ấy nghỉ được. Theo quy định của hợp đồng là sau khi hết thời hạn hợp đồng một năm thì Công ty chúng tôi bắt buộc ký hợp đồng dài hạn. Chúng tôi không muốn tiếp tục ký hợp đồng lao động với chị T. Vậy chúng tôi phải làm sao?
(Nguyễn Hoàng Phúc) |
|
|
|
Luật sư Trần Phạm Thanh Loan trả lời: Do thông tin từ email không thể hiện rõ những nội dung cụ thể có liên quan trong hợp đồng lao động giữa Công ty của ông (“Quý Công ty”) và chị Tâm, nên nội dung hỗ trợ pháp lý dưới đây của Sài Gòn Luật chỉ mang tính nguyên tắc, dựa trên các quy định pháp luật liên quan đến những vấn đề ông nhờ hỗ trợ.
Thứ nhất, theo quy định tại khoản 1 Điều 38 Bộ luật Lao động thì Công ty chỉ có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với chị T trong những trường hợp sau:
(i) Chị T thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng;
(ii) Chị T bị xử lý kỷ luật sa thải theo quy định Điều 85 BLLĐ;
(iii) Chị T ốm đau đã điều trị sáu (06) tháng liền mà khả năng lao động chưa hồi phục;
(iv) Xảy ra các trường hợp bất khả kháng theo quy định pháp luật mà Công ty đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc trong đó có chị T;
(v) Công ty chấm dứt hoạt động.
Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 3 Điều 39 và khoản 3 Điều 111 BLLĐ thì người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động nữ có thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp doanh nghiệp chấm dứt hoạt động. Đồng thời, người lao động là nữ trong những trường hợp nói trên được tạm hoãn việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, kéo dài thời hiệu xem xét xử lý kỷ luật lao động. Do đó, Công ty không thể sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với chị T trong thời gian chị T có thai, trừ trường hợp (v) nêu trên.
Nếu Công ty vẫn đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với chị T trong thời gian này, có nghĩa là Công ty đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Nếu Công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì hậu quả pháp lý như sau:
(i) Công ty phải nhận chị T trở lại làm công việc theo hợp đồng đã ký và phải bồi thường một khoản tiền tương ứng với tiền lương và phụ cấp lương (nếu có) trong những ngày chị T không được làm việc, cộng với ít nhất hai tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có);
(ii) Trong trường hợp chị T không muốn trở lại làm việc, thì ngoài khoản tiền được bồi thường tại điểm (i) nói trên, chị T còn được trợ cấp theo quy định tại Điều 42 BLLĐ (nếu chị T đã làm việc thường xuyên trong Công ty từ đủ 12 tháng trở lên);
(iii) Trong trường hợp Công ty không muốn nhận chị T trở lại làm việc và chị T đồng ý thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại điểm (i) nói trên và trợ cấp quy định tại Điều 42 BLLĐ, hai bên thỏa thuận về khoản tiền bồi thường thêm cho chị T để chấm dứt hợp đồng lao động.
Thứ hai, theo thông tin ông cung cấp qua email thì hợp đồng lao động đã ký giữa Công ty và chị T có thỏa thuận về việc Công ty bắt buộc phải ký hợp đồng dài hạn sau khi kết thúc hợp đồng có thời hạn một năm. Do đó, Công ty có nghĩa vụ phải thực hiện cam kết trong hợp đồng đã ký kết.
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật lao động thì hợp đồng lao động bao gồm ba loại: (i) hợp đồng lao động không xác định thời hạn; (ii) hợp đồng lao động có xác định thời hạn và (iii) hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng. Như vậy, pháp luật lao động không có loại hợp đồng lao động dài hạn như thông tin mà ông nêu trong email. |
|
|
admin |
|
Không có hóa đơn chứng từ có được quyết toán thuế? (18:20, 05/12/2008)
Công ty tôi có hợp đồng vận tải với công ty khác. Nhưng không có xe chuyên dùng đành phải thuê xe cá nhân (bằng văn bản thoả thuận). Tôi có được quyết toán chi phí bằng văn bản thỏa thuận đó không?
(Nguyễn Hoàng Phát) |
|
|
|
Luật sư Huỳnh Văn Nông trả lời: Nội dung hỗ trợ pháp lý dưới đây của Sài Gòn Luật chỉ mang tính nguyên tắc, căn cứ các quy định pháp luật liên quan đến những vấn đề ông/bà nhờ hỗ trợ dựa trên những thông tin do ông/bà cung cấp qua email.
Trong tình huống nói trên, chi phí thuê xe được xem là chi phí mua dịch vụ cá nhân không kinh doanh, không có hoá đơn chứng từ. Theo Khoản 2 Điều 5 Nghị định số 24/2007/NĐ-CP, đối với những chi phí nói trên, cơ sở kinh doanh được phép lập Bảng kê trên cơ sở chứng từ đề nghị thanh toán của người cung ứng dịch vụ. Bảng kê thu mua hàng hoá, dịch vụ do người đại diện theo pháp luật của cơ sở kinh doanh ký và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực.
Như vậy, chi phí thuê xe trong trường hợp nói trên chỉ được coi là chi phí hợp lý được trừ để tính thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp nếu cơ sở kinh doanh của ông/bà có lập Bảng kê theo đúng quy định pháp luật. |
|
|
admin |
|
|
|