|
TƯ VẤN |
Trả tiền thuê đất? (18:19, 05/12/2008)
Công ty TNHH Trường Sơn có hợp đồng thuê mặt bằng 1715m2 để kinh doanh nhà hàng trong thời hạn 10 năm nhưng mặt bằng thuộc diện tích đất trồng cây lâu năm. Tiền thuê mỗi tháng 7.000.000 đồng từ tháng 4 năm 2006. Đến tháng 5 năm 2007, Phòng Tài nguyên - Môi trường TX. TDM kiểm tra thấy nhà hàng xây dựng trên diện tích không phải đất sản xuất kinh doanh, nên đã yêu cầu chủ cho thuê chuyển mục đích sử dụng sang sản xuất kinh doanh. Công ty Trường Sơn ngưng xây dựng và xin phép Sở Kế hoạch - Đầu tư tỉnh và Cục Thuế cho Công ty tạm ngưng hoạt động để chờ Chủ cho thuê mặt bằng chuyển mục đích sử dụng đất. Quý Ông nhờ chúng tôi hỗ trợ trả lời các vấn đề sau:
1. Trong thời gian chờ đợi chủ đất chuyển mục đích, Công ty tạm ngưng hoạt động theo yêu cầu của Đội Thanh tra Xây dựng, không doanh thu, cơ sở xuống cấp, chi phí bảo vệ và điện phát sinh bên Công ty phải đài thọ. Bên Công ty có phải trả tiền thuê mặt bằng (chưa hợp pháp) cho chủ thuê không ?
2. Nếu Chủ cho thuê mặt bằng chỉ chuyển mục đích sử dụng đất 730m2/1715m2 cho thuê. Vậy Công ty thanh toán theo mức nào cho hợp lý?
(Lưu Văn Thạnh) |
|
|
|
Luật sư Hùynh Văn Nông trả lời: Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy các thông tin ông cung cấp qua email còn những điểm chưa được đầy đủ. Do đó, những nội dung hỗ trợ pháp lý dưới đây của Sài Gòn Luật chỉ mang tính nguyên tắc, dựa trên các quy định của pháp luật dân sự liên quan đến vấn đề ông nhờ hỗ trợ.
Thứ nhất, về việc trả tiền thuê đất trong khi Công ty tạm ngừng hoạt động sẽ do hai bên tự thỏa thuận. Nếu có không thỏa thuận thì Công ty vẫn phải có nghĩa vụ thanh toán tiền đúng hạn theo Điều 489 Bộ luật Dân sự năm 2005 (“BLDS”) nếu Hợp đồng thuê đất này có hiệu lực. Hợp đồng này có hiệu lực hay không chúng tôi sẽ phân tích phía dưới đây.
Thứ hai, nếu bên cho thuê chỉ chuyển mục đích sử dụng đất được 730m2/1715m2 thì việc thanh toán sẽ do Công ty và Bên cho thuê tự thỏa thuận lại nếu cán bên còn có nhu cầu tiếp thuê và cho thuê. Nếu các bên không thỏa thuận được, Công ty có quyền căn cứ vào Điều 485 BLDS yêu cầu Bên cho thuê đất đổi tài sản khác hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu tài sản thuê không thể sửa chữa được mà do đó mục đích thuê không đạt được. Tuy nhiên, để thực hiện được quyền này thì Hợp đồng cho thuê đất nói trên phải có hiệu lực.
Hiệu lực của hợp đồng thuê đất của Công ty và Bên cho thuê:
(i) Nếu trong hợp đồng thuê đất của Công ty và Bên cho thuê có thỏa thuận nghĩa vụ chuyển mục đích sử dụng đất sang làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất trước khi Công ty triển khai hoạt động xây dựng thì hợp đồng thuê đất này có hiệu lực pháp luật;
(ii) Nếu trong hợp đồng thuê đất của Công ty và Bên cho thuê không có thỏa thuận nghĩa vụ chuyển mục đích sử dụng đất sang làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh trước khi Công ty triển khai hoạt động xây dựng mà lại thỏa thuận bên cho thuế đất cho Công ty thuê đất trồng cây nông nghiệp lâu năm để xây dựng kinh doanh nhà hàng thì hợp đồng thuê đất này vô hiệu do có hành vi sử dụng đất không đúng mục đích là hành vi bị nghiêm cấm theo Điều 15 Luật Đất đai năm 2003.
Chúng tôi cũng xin lưu ý thêm về việc xử lý hậu quả pháp lý hợp đồng vô hiệu:
Hậu quả pháp lý hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm xác lập, các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, bên có lỗi gây ra thiệt hại phải bồi thường. |
|
|
admin |
|
Vay vốn cho công ty có thành viên là vợ chồng? (18:16, 05/12/2008)
Vợ chồng là 02 thành viên của một công ty TNHH hai thành viên (“Công ty”). Khi thế chấp tài sản của vợ chồng để Công ty vay vốn thì làm thế nào? Hội đồng thành viên có thể ủy quyền cho người khác đại diện Công ty để vay ngân hàng được không và người này có nhất thiết phải là thành viên của Công ty không?
(Lương Trọng Nghĩa) |
|
|
|
Luật sư Huỳnh Văn Nông trả lời: Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 342 Bộ luật Dân sự (BLDS) thì tài sản thế chấp phải là tài sản thuộc sở hữu của bên thế chấp để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự với bên kia. Do đó, tài sản thế chấp để Công ty vay vốn ngân hàng phải là tài sản của Công ty. Tài sản của Công ty chính là tài sản mà ông và vợ của ông đã góp vốn vào Công ty. Nếu tài sản ông định thế chấp để Công ty vay vốn là tài sản riêng của vợ chồng ông, thì vợ chồng ông phải thực hiện các thủ tục bảo lãnh có thế chấp bằng tài sản riêng của vợ chồng ông nghĩa vụ bảo lãnh đó để Công ty vay vốn.
Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 86 BLDS, khoản 14 Điều 4, Điều 59 Luật Doanh nghiệp thì người đại diện theo pháp luật của Công ty có quyền ủy quyền cho người khác đại diện Công ty để vay vốn mà không nhất thiết phải là thành viên của Công ty.
|
|
|
admin |
|
“Lấy trộm” thẻ ATM (17:56, 05/12/2008)
Em của bà là nông dân vào nhà người khác nhìn thấy một thẻ ATM (tài khoản còn 320 triệu đồng) thấy đẹp nên lấy trộm đem về cho cháu chơi, bị công an bắt. Nay bà muốn hỏi em của bà có phạm tội hay không?
(Lê Thị Kim Chi) |
|
|
|
Luật sư Huỳnh Văn Nông trả lời: Em của bà đã có hành vi trộm cắp thẻ ATM. Thẻ ATM chỉ có giá trị đối với người biết mật mã mở thẻ. Đối với em của bà, thẻ ATM này chỉ có giá trị là một tấm bìa đẹp dùng làm đồ chơi. Em của bà chỉ có mục đích, động cơ là mang về cho cháu chơi; không có động cơ, mục đích chiếm đoạt số tiền trong thẻ đó. Do số tiền trong thẻ không bị mất nên hậu quả do hành vi trộm cắp đó không xảy ra.
Theo quy định tại Điều 63 Bộ luật Tố tụng Hình sự thì khi điều tra vụ án hình sự, Cơ quan điều tra phải chứng minh được mục đích, động cơ phạm tội; tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Em của bà vì không biết nên đã có hành vi trộm cắp thẻ ATM này nhưng hành vi đó chỉ đơn thuần là trộm cắp một tấm bìa đẹp, là tài sản có giá trị dưới 500.000 đồng. Theo phân tích trên thì hành vi của em bà không cấu thành hành vi trộm cắp tài sản theo Điều 138 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, trách nhiệm chứng minh em của bà có phạm tội hay không là thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Đồng thời, để khẳng định em của bà có phạm tội hay không thì phải căn cứ vào bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. |
|
|
admin |
|
Bản sao có thể dùng làm chứng cứ? (17:54, 05/12/2008)
Ông và Công ty A có thực hiện hợp đồng vay vốn, do bất cẩn ông đã đánh rơi bản chính (hợp đồng vay vốn, biên bản giao nhận tiền, bảo lãnh thực hiện hợp đồng) chỉ còn các bản sao có chứng thực của UBND thành phố Nha Trang. Xin hỏi: nếu có xảy ra tranh chấp, ông có thể dùng bản sao thay cho bản chính để làm chứng cứ được không?
(Lâm Quốc Hùng) |
|
|
|
Luật sư Hùynh Văn Nông trả lời: theo quy định tại khoản 1, Điều 83 Bộ luật Tố tụng Dân sự (“BLTTDS”) thì đối với “các tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc là bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp”. Như vậy, trong trường hợp có tranh chấp xảy ra giữa ông và Công ty A thì các bản sao có chứng thực của UBND thành phố Nha Trang như ông đã trình bày có thể được xem là chứng cứ trong vụ án dân sự nếu thỏa mãn cả ba điều kiện dưới đây.
(i) Nó có thật;
(ii) Được giao nộp cho Toà án hoặc do Toà án thu thập được theo trình tự, thủ tục quy định trong BLTTDS;
(iii) Toà án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.
|
|
|
admin |
|
Quyền thừa kế của Việt kiều? (17:48, 05/12/2008)
Căn nhà tại TP.HCM (sau đây gọi là “Căn nhà”) nguyên do cha tôi (Nguyen Huu D) và mẹ tôi (Nguyen Quy N) mua có văn tự đoạn mãi lập ngày 15/5/1964, trước bạ và chứng nhận của Hội đồng xã PN. Tháng 5/1975, Căn nhà bị tiếp quản và lấy làm kho gạo nhưng sau nhiều năm gia đình khiếu nại, UBND phường và UBND quận đã chính thức trả lại Căn nhà cho mẹ tôi (có quyết định bằng văn bản).
Tháng 5/1989, gia đình tôi xuất cảnh hợp pháp sang Hoa Kỳ, mẹ tôi có khai báo tất cả bất động sản ở Việt Nam và có nhờ người nhà thỉnh thoảng đến trông nom, dọn dẹp Căn nhà. Tháng 3/1992, mẹ tôi về nước có viết giấy ủy quyền (viết tay, không có công chứng) cho anh tôi là Nguyen Huu H trông coi Căn nhà, trong đó có nhấn mạnh không được phép sang nhượng hay cho thuê dưới bất kỳ hình thức nào. Tháng 6/1992, mẹ tôi làm tờ hủy bỏ giấy ủy quyền năm 1992 (có chứng thực của UBND phường) do anh tôi trước đó đã tự ý cho thuê. Người thuê nhà đã dọn ra khỏi nhà tôi ngay sau đó.
Tháng 02/1994, mẹ tôi về nước và phát hiện có người lạ ở trong nhà, mẹ tôi báo cho Công an phường và Công an quận yêu cầu giải quyết nhưng vì lý do sức khỏe nên mẹ tôi phải trở về Mỹ. Sau đó, chúng tôi có liên lạc với chị L.T (người ở trong Căn nhà), chị nói là mua nhà từ anh tôi và đã trả 50 lượng nhưng do biết anh tôi không phải là chủ sở hữu nên việc mua bán bị tạm ngưng lại. Tháng 7/2005, chị em tôi liên lạc và yêu cầu chị T thu xếp dọn ra khỏi nhà vì chúng tôi sẽ khởi kiện đòi lại nhà. Sau đó, theo lời chị T, chúng tôi được biết chị T đã đưa thêm 10 cây vàng và yêu cầu anh tôi bán Căn nhà cho Nguyen Duc L (chúng tôi không biết họ dùng giấy tờ nào để mua bán). Tháng 4/2007, Nguyen Duc L đã bán Căn nhà cho bà Nguyen Thi T..
Ngày 22/10/2007, mẹ tôi nhờ anh Bui Van P nộp đơn đòi lại nhà và yêu cầu trục xuất người chiếm nhà bất hợp pháp, đơn được gửi đến UBND phường và quận và có giấy biên nhận đơn.
Ngày 26/11/2007, cán bộ tiếp dân của UBND quận và bí thư phường mời anh P đến P. 14 làm việc và yêu cầu anh P sửa lại là Đơn đòi nhà, đồng thời cho biết trong vòng 2 năm (2006 và 2007) cơ quan có thẩm quyền đã ra 04 quyết định thu hồi, hoá giá, cấp nhà tiêu chuẩn…, trong đó, 02 quyết định do phó chủ tịch UBND quận ký và 02 quyết định do phó chủ tịch UBND thành phố ký.
Ngày 18/02/2008, mẹ tôi qua đời. Ngày 12/5/2008, tôi đến UBND quận yêu cầu giải quyết đơn khởi tố nộp ngày 22/10/2007 thì được cán bộ tiếp dân cho biết đơn của chúng tôi đã bị thất lạc và yêu cầu nộp đơn lại và hức hẹn sẽ giải quyết. Ngày 18/5/2008, chúng tôi nộp đơn lần thứ hai và tiếp tục chờ đợi.
Cha tôi đã qua đời năm 1998. Cha mẹ tôi qua đời không để lại di chúc và ông bà nội, ngoại của tôi cũng đã qua đời từ lâu. Cha tôi và chúng tôi mang quốc tịch Mỹ, còn mẹ tôi vẫn còn quốc tịch Việt Nam. Xin hỏi:
1. Chúng tôi có phải là người thừa kế hợp pháp theo pháp luật Việt Nam hiện hành hay không?
2. Tôi có quyền tiếp tục đơn của mẹ tôi trong vụ kiện đòi nhà hay không?
3. Người anh không phải là chủ sở hữu Căn nhà có quyền đứng ra hiến Căn nhà cho Nhà nước hay không và khi hiến nhà phải xuất trình những giấy tờ gì?
4. Nếu tôi là người thừa kế và được quyền tiếp tục đơn kiện, xin hỏi tôi phải làm thủ tục gì để đòi lại Căn nhà?
Chúng tôi là người Việt Nam mang quốc tịch nước ngoài, vậy chúng tôi có được quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết đối với những cán bộ nhà nước đã ban hành những quyết định trái pháp luật hay không? Chúng tôi làm như vậy có vi phạm pháp luật Việt Nam về vấn đề an ninh trật tự nhà nước hay không?
(Kristina Nguyen) |
|
|
|
Luật sư Huỳnh Văn Nông trả lời:
1. Điều 767 Bộ luật Dân sự Việt Nam (“BLDS”) quy định thừa kế theo pháp luật phải tuân theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch trước khi chết. Do đó, theo quy định nói trên thì việc xác định người có quyền thừa kế di sản của cha bà phải căn cứ vào các quy định của pháp luật Mỹ.
Mẹ của bà có quốc tịch Việt Nam nên khi mẹ của bà qua đời mà không để lại di chúc (ông bà nội ngoại đã qua đời trước mẹ của bà) thì những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của mẹ bà, bao gồm: bà và các anh, chị, em của bà, kể cả con nuôi của mẹ bà (nếu có), có quyền thừa kế đối với di sản của mẹ bà theo quy định tại Điều 631 BLDS. Tuy nhiên, đối với di sản là bất động sản ở tại Việt Nam thì việc thừa kế theo pháp luật còn phải tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh đối với bất động sản đó, ví dụ Luật Nhà ở, Luật Đất đai v.v..
2. Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì khi quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, bà có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết, thông qua việc khiếu nại, tố cáo đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc khởi kiện tại Tòa án v.v.. Việc xác định quyền sở hữu của mẹ bà đối với căn nhà có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của những người thừa kế của mẹ bà, trong đó có bà và các anh, chị, em của bà. Do vậy, bà và các anh, chị, em của bà hoàn toàn có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết vấn đề nói trên.
3. Theo quy định tại Điều 164 BLDS thì chỉ có chủ sở hữu mới có quyền định đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu của mình. Do vậy, người anh của bà nếu không phải là chủ sở hữu (không có căn cứ chứng minh mình là chủ sở hữu) thì không có quyền định đoạt đối với Căn nhà, nghĩa là không có quyền hiến Căn nhà cho Nhà nước.
Tuy nhiên, xin giải thích thêm trong trường hợp người anh của bà không chứng minh được mình là chủ sở hữu và Căn nhà thuộc diện nhà vắng chủ (không xác định được chủ sở hữu) hoặc những trường hợp được phân tích ở bên dưới đây thì có thể Căn nhà được Nhà nước quản lý, bố trí sử dụng theo các quy định pháp luật, chứ không phải là người anh này hiến Căn nhà cho Nhà nước.
4. Để xác định được thủ tục mà bà phải thực hiện để đòi lại Căn nhà thì trước hết phải làm rõ các quy định của pháp luật đối với trường hợp nhà vắng chủ do chủ sở hữu xuất cảnh (trước ngày 01/7/1991). Theo quy định pháp luật, có thể chia thành ba trường hợp như sau:
(i) Trường hợp Căn nhà thuộc diện Nhà nước quản lý, bố trí sử dụng theo quy định tại Nghị quyết 23 đồng thời Nhà nước đã có văn bản quản lý và đã bố trí cho người khác sử dụng thì Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại nhà đất. Do đó, nếu thuộc trường hợp này thì gia đình bà không thể đòi lại Căn nhà.
(ii) Trường hợp Căn nhà thuộc diện Nhà nước quản lý, bố trí sử dụng theo quy định tại Nghị quyết 23 nhưng trên thực tế Nhà nước Việt Nam vẫn chưa có văn bản quản lý và cũng chưa bố trí cho ai sử dụng, đến nay Căn nhà vẫn còn do khi đi xuất cảnh cha mẹ của bà có cho người khác thuê, mượn, ở nhờ hoặc giao cho người thân thích quản lý và sử dụng nhà và đất, thì nay gia đình bà có thể lấy lại Căn nhà theo quy định tại Nghị quyết 755.
(iii) Trường hợp Căn nhà không thuộc diện Nhà nước quản lý, bố trí sử dụng và trước khi đi xuất cảnh, gia đình bà có cho người khác ở thuê, mượn, ở nhờ hoặc ủy quyền cho người thân thích quản lý và sử dụng nhà ở, thì nay gia đình bà có thể lấy lại Căn nhà theo quy định của Nghị quyết 1037.
Như vậy, nếu thuộc trường hợp được lấy lại nhà theo quy định pháp luật (tức là thuộc trường hợp (ii) hoặc (iii) nêu trên) thì mẹ bà (hoặc những người thừa kế của mẹ bà) có thể thực hiện các thủ tục để lấy lại nhà theo quy định tại Nghị quyết 1037. Cụ thể, phải thực hiện thủ tục thông báo trước cho bên thuê, mượn, ở nhờ nhà ở hoặc người đang quản lý, sử dụng nhà ở một khoảng thời gian và phải thanh toán cho người đó các khoản tiền liên quan đến việc cải tạo, sửa chửa, nâng cấp, v.v... Trong trường hợp đã thực hiện đúng và đầy đủ các thủ tục luật định mà người đang quản lý, sử dụng Căn nhà không trả lại nhà thì chị em bà có thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết.
Mặt khác, nếu thuộc trường hợp đã có văn bản của cơ quan có thẩm quyền về việc quản lý, bố trí Căn nhà cho người khác sử dụng nhưng bà có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì bà có thể thực hiện thủ tục khiếu nại, tố cáo đối với quyết định hành chính, hành vi hành đó (theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo). Tuy nhiên, cần lưu ý thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được có hành vi hành chính. Trong trường hợp vì ốm đau, thiên tai, địch hoạ, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác mà bà không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu, thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại.
5. Theo Điều 1 Luật Khiếu nại, tố cáo thì công dân có quyền khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình (lưu ý phải còn thời hiệu khiếu nại như đã phân tích ở trên đây).
Như vậy theo quy định nói trên, bà hoàn toàn có quyền khiếu nại quyết định hành chính trái pháp luật của người (hoặc cơ quan) có thẩm quyền ban hành khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật và xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của bà. |
|
|
admin |
|
|
|